CHỮ NÔM
— Lm Hồ Ngọc Cẩn (1933)
(trích trong Văn Chương An Nam, trang 163-165, Hongkong
1933)
Chữ Nôm là thứ chữ nào? Đã có từ khi nào?
Chữ Nôm là thứ chữ mượn chữ Nho mà âm ra tiếng An Nam ta.
Không rõ thứ chữ ấy ai bày ra và đã bày ra lúc nào; chắc một
điều là từ thế kỉ XIII đã thấy có bia khắc bằng thứ chữ ấy.
Lấy chữ Nho mà lập ra chữ Nôm cách nào?
Có hai cách lập:
1-là lấy một chữ
2-là lấy hai chữ chắp lại với nhau.
###
1-Lấy một chữ là khi nào chữ Nho ấy đọc giống như, hay là
nghe gần giống như tiếng mình có ý nôm.
Ví dụ con cái thì viết 昆 丐
Nho đọc côn cái.
2-Lấy hai chữ là khi nào không có một chữ Nho đọc cho nghe
giống như tiếng mình có ý muốn nôm. Bấy giờ túng phải dùng hai chữ làm cho ra một
tiếng.
Ví dụ mẹ ghẻ, hai chữ ấy không có chữ nho như vậy, cho nên
phải lập chữ Nôm thế này: 媄 𤴪.
Vậy: khi lấy một chữ hoặc hai chữ mà nôm thì phải cứ hai luật
sau này:
Tiết 1: KHI MƯỢN MỘT CHỮ
Luật chung: khi có chữ Nho mà đọc như tiếng An Nam thì mượn
chữ ấy mà nôm. Ví dụ viết bài: 曰 排
Nếu không chữ nào đọc như tiếng An Nam thì mượn chữ tương tợ
theo cái luật sẽ nói sau. Trước hết phải biết: có nhiều cách tương tợ.
1-Có chữ nghe tương tợ, song có khác consonne (phụ âm) đứng
đầu, như bản và phản nghe tương tợ, song một tiếng chữ B đứng đầu, chữ kia thì
PH đứng đầu (tuy vậy nhưng chỉ dùng một chữ: 板)
2-Có khi nghe tương tợ ở nơi cái vần ngược, hoặc nơi chữ
voyelle (nguyên âm). Ví dụ chữ 合
thì đọc hạp, hiệp, hộp, hợp.
3-Là có khi đổi cả chữ consonne đầu, cả vần ngược sau. Ví dụ
chữ 職 đọc là chức, mà cũng đọc chắc,
giấc.
4-Có khi tương tợ vì khác dấu. Ví dụ chữ 吟 thường đọc là ngâm, mà có khi
cũng đọc ngắm, ngẫm, gẫm.
Vậy phải cứ các luật này:
I-ĐỔI CHỮ ĐẦU
1-Chữ B, PH, V quen đổi với nhau. ví dụ chữ卜 nôm bốc hay vốc cũng được. Chữ
板 nôm bản, phản hay ván cũng được.
2-Chữ C, K, G, GH, Q quen đổi với nhau. ví dụ chữ 及 thường là cập, muốn nôm cấp,
gấp, gặp, kịp cũng được. Chữ đọc quần 群
mà nôm còn cũng được.
3-Chữ D, Đ, T, V quen đổi với nhau. ví dụ chữ 性 đọc tính, tánh mà nôm dính
cũng được. Chữ 停
đọc đình mà nôm dành, đành cũng được.
4-Chữ CH, GI có khi Tr và X quen đổi với nhau. Ví dụ chữ 執 đọc chấp mà cũng đọc được chụp,
giúp, xụp, xọp.
5-Chữ L, R, Tr quen đổi với nhau. Ví dụ chữ 律 mà cũng nôm được lọt, luột,
lót, rọt.
II-ĐỔI VẬN
Phần nhiều nôm là đổi vần xê xích, tương tợ nhau, bởi đó phải
biết vần nào tương tợ cùng nhau. Vậy:
1-AC, ĂC, ÂC, ƯC, ƯƠC nôm được với nhau. Ví dụ chữ 北 đọc bắc mà cũng nôm được bấc,
bức, bước.
2-Vận ÁCH, ÊCH, IÊC, ICH đổi được với nhau. Ví dụ chữ 役 đọc dịch mà cũng nôm việc; chữ
đọc xích mà cũng nôm xếch, xệch.
3-Vận AI, AY, ÂY, OAI, OAY, OI, ÔI, ƠI, UÔI, ƯƠI, UI, ƯI, E,
Ê, I, IA có khi ƯA quen nôm với nhau. Ví dụ chữ 尼 đọc nê mà cũng nôm nay, ni,
nê. Chữ 支 đọc chi mà cũng nôm chia, chữ
皮 đọc bì mà cũng nôm bề, vừa.
4-Vận AM, AM, EM, ÊM, IM, IEM, OM, ÔM, ƠM, UM, ƯM, ƯƠM đổi với
nhau. Ví dụ chữ 冘
đọc đam mà cũng nôm đâm, đem, đơm.
5-Vận AN, ĂN, ÂN, EN, ÊN, IÊU, UYÊN, IN, UÂN, ON, ÔN, ƯƠN,
ƠN, UN, ƯN, UÔN đổi với nhau. Ví dụ chữ 噒
đọc rân, răn, rên cũng được..
6-Vận ĂNG, ÂNG, UNG, ƯNG, ƯƠNG quen đổi với nhau. Ví dụ chữ 用 đọc dụng mà cũng nôm dòng,
dùng.
8-Vận ANH, ÊNH, INH, IÊNG, ANG, ƯNG quen đổi với nhau. Ví dụ
chữ 生đọc sanh, sinh, siêng cũng được.
9-Vận AO, AU, ÂU, O, Ô, Ơ, Ư, U, ƯC, ƯU quen đổi với nhau.
Ví dụ chữ 𢭂 đọc lao, lau, trao, trau
cũng được.
10-Vận AP, ĂP,ÂP, EP, ÊP, IÊP, IP, OP, ÔP, ƠP, UP, ƯP, ƯƠP
dùng chung với nhau. Ví dụ chữ 及
đọc cập, gặp, gấp, kịp cũng được.
11-Vận AT, ĂT, ÂT, UÂT, OT,ƠT, UT, ƯT, ƯƠT, UÔT, IT dùng
chung với nhau. Ví dụ chữ 乙
đọc ất, ắt, út, ít cũng được.
12-Vận ET, ÊT, IÊT, IT dùng với nhau. Ví dụ chữ 歇 đọc kiết, hết, hít cũng được.
NB (chú ý): Xem trong các thí dụ trên nầy thì thấy có nhiều
chữ nôm chẳng những phải đổi vần ngược mà thôi, lại đổi chữ consonne (phụ âm)
nữa, như chữ 及 cập nôm ra chữ gặp, chữ kịp
hay chữ kíp.
III-ĐỔI DẤU
Có chữ nôm phải đổi ra dấu khác, có bình đổi ra trắc cũng
có, có khi chữ không dấu mà nôm phải thêm dấu cũng có. Ví dụ như chữ nôm ngâm
hay ngậm, ngắm, gẫm cũng được; 聲 靈
nôm thiêng liêng hay thình lình cũng được.
Tiết 2: KHI MƯỢN HAI CHỮ MÀ NÔM
Có khi phải mượn hai chữ mà nôm, vì một chữ thì không có cho
tương tợ, hoặc có mà không rõ. Vậy thì dùng hai chữ, một chữ dẫn nghĩa, một chữ
dẫn vận.
Chữ dẫn vận thì cứ 12 khoản đã kể trước này; còn dẫn nghĩa
thì có hai cách: hoặc là dẫn nghĩa riêng chữ ấy như chữ 𠰘;
thì nôm miệng vì có chữ 口
là miệng, chữ bên kia là mệnh (mãnh). Miệng mệnh là một vận, và có khẩu là miệng
nữa, cho nên phải nôm miệng là
hạp rồi. Hoặc dẫn nghĩa cách trỏng vậy. Như:
Khẩu 口
chỉ các việc làm nơi miệng. Ví dụ ăn nói 咹 呐.
Nhĩ 耳
chỉ các việc là tai. Ví dụ nghe 𦖑.
Mục 目
chỉ các việc nơi con mắt. Ví dụ đui 𥊖.
Thủ 扌chỉ
các việc nơi tay. Ví dụ cầm 扲.
Túc 𧾷chỉ các việc làm nơi chân.
Ví dụ quỳ 跪.
Thảo 艹 chỉ loài rau, loài cỏ. Ví dụ rau rác
蔞 落.
Mộc 木
chỉ loài cây. Ví dụ gai 𣘃 cau 槔
Hỏa 火
chỉ việc thuộc về lửa. Ví dụ cháy ngời (2 chữ này do lỗi fond nên không
chép ra được).
Thủy 氺
chỉ nơi chỉ việc có nước. Ví dụ ao giếng 泑 汫,
giặt rửa 泆 𣳮
ấy là làm ví dụ một ít pho, đến pho khác cũng vậy. Cách lập
chữ Nôm thì như vậy đó. Lại phải biết rằng: sách đạo sách đời nôm có khác nhau,
một điều ai hiểu ý thì cũng chẳng lấy gì làm khó, là sách đạo nôm cách đơn sơ
hơn, quen dùng vận mà nôm ra, chữ nào khó nôm ra thì mới dùng đến hai chữ. Còn
sách đời quen nôm cách kép là dùng hai chữ. Ví dụ: có xưa nay thì sách đạo nôm
thế này: 固 初 尼; còn sách đời thì viết: 𣎏 𠸗 𠉞.
—
Chú thích: nguyên sách này có tựa đề là Văn Chương Thi Phú
Annam gồm 2 tập xuất bản năm 1919, nhà in Nazareth ở Hongkong. Khi in lại thì
chỉ giữ tựa đề Văn Chương Annam
Về tác giả Hồ Ngọc Cẩn, mời đọc:
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Đa_Minh_Maria_Hồ_Ng%E1%BB%8Dc_Cẩn
Nguồn: FB Anh Q Tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét