Chữ Nôm Công Giáo: Nhận định & trao đổi với một giáo sư dạy Hán Nôm tại đại học Hoa Kỳ (trích)

 

CHỮ NÔM CÔNG GIÁO: NHẬN ĐỊNH & TRAO ĐỔI VỚI MỘT GIÁO SƯ DẠY HÁN NÔM TẠI ĐẠI HỌC HOA KỲ

 

                                                                                                     Nguyễn Đức Cung

                                                                                 Philadelphia, September 16 - 2020

            Khi viết bài “Chữ Nôm với đạo Công Giáo trong thế kỷ XVII-XX” tôi nghĩ về công lao của các vị Thừa sai Âu châu lặn lội đến VN để truyền đạo. Những vất vả khổ cực của họ trên bước đường truyền giáo như sự cấm cách của chính quyền, sự thù nghịch của các tôn giáo khác, sự khó khăn trước hàng rào ngôn ngữ, khác biệt về phong tục tập quán trong đời sống xã hội v.v. Theo dõi cuộc lễ kỉ niệm 400 năm lịch sử chữ Quốc Ngữ tại Sài gòn do Tòa TGM Sài gòn tổ chức, qua đó một thuyết trình viên, LM Tiến Sĩ Trần Đức Anh cho biết hiện thời ở Vatican còn có rất nhiều tư liệu chữ Nôm mà chưa được các nhà nghiên cứu đưa vào sử dụng. Thật cũng là một duyên kì ngộ khi vừa qua Giáo Sư Tiến Sĩ Ngô Thanh Nhàn, sau khi đọc bài viết về chữ Nôm của tôi đăng trên Vietcatholic, đã nhờ LM Giám Đốc Vietcatholic, Cha Trần Công Nghị qua một Cộng tác viên lâu đời của TTXCG, Cô Emily Nguyên, liên lạc với chúng tôi để có dịp quen nhau và trao đổi hiểu biết, kiến thức về chữ Nôm, một kho tàng văn hóa của dân tộc.

            Nhận thấy nội dung điện thư của nhà nghiên cứu Nôm học, Giáo sư Tiến Sĩ Ngô Thanh Nhàn, hiện dạy học tại Đại Học New York và Đại Học Temple (Philadelphia) phản ánh nhiều lối nhìn rất thoáng về tương lai chữ Nôm và có nhiều mách bảo hữu ích vốn cần thiết cho việc nghiên cứu và bảo lưu ngành Nôm học nên chúng tôi xin trích lại và có những nhận xét sơ khởi:

            1.- Quá trình nghiên cứu trong phạm trù chữ Nôm:

            Qua điện thư trao đổi ngày 9 & 10 September, 2020, Giáo sư Ngô Thanh Nhàn cho biết:

            1.-“Trước đó làm việc với Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhiều việc. Đầu tiên là tham gia với Unicode năm 1994 để góp chữ mới cho nhóm chữ biểu ý. Họ đã tiếp tục từ ấy đến nay. Việc thứ hai là cùng chúng tôi, lúc đó tôi còn trong Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, tổ chức hai hội nghị quốc tế về chữ Nôm tại Hà Nội 2004 và Huế 2006. Năm 2002 tôi có diễm phúc làm việc với Lm Trần Văn Kiệm để làm font chữ Nôm Na Tống để in lại quyển ‘Giúp đọc Nôm và Hán Việt’, sau 2 năm ra sách năm 2004. Mục tiêu là đưa chữ Nôm vào thư viện và bảo tàng viện ở Việt Nam bằng phương pháp chuẩn quốc tế (khi họ làm ra máy mới, cái nào cũng có chữ Nôm). Ngành Nôm học, không chỉ là chữ Nôm, nếu nhìn chữ Nôm từ nhiều góc cạnh khoa học…Nó tự thành Nôm học khi dùng vào ngành thư viện.”

            Như vậy là trong nhiều năm qua, Giáo Sư Ngô Thanh Nhàn đã có những đóng góp tích cực về kỹ thuật điện toán và điều mà ông gọi là “diễm phúc” khi làm việc với LM Trần Văn Kiệm để in lại quyển ‘Giúp đọc Nôm và Hán Việt’ một công trình tim óc qua font chữ Nôm Na Tống (?), việc này cụ thể hóa phần nào thành quả Giáo Sư đã đạt được trong lãnh vực bảo tồn di sản chữ Nôm. Lúc LM Trần Văn Kiệm còn sống và cư ngụ tại Atlanta, GA, tôi cũng đã có dịp viếng thăm ngài và được tặng một số ấn phẩm về Kinh Thánh, Từ điển Văn học v.v…

            Ở đoạn dưới, lá thư điện tử của GS Ngô Thanh Nhàn cho biết :

            2.-“Thư viện Giáo Hoàng Vatican tìm tôi để đưa các sách đã có ở trong kho nhưng chưa làm được thẻ thư viện cho người đọc. Trong bản tin có nói đến, 110 đầu sách và thủ bút. Tôi đến đó trong 10 ngày làm xong thẻ thư viện cho nhóm tư liệu này. Và sẽ tiếp tục làm xong khi Bộ phận Số hóa của Thư viện tìm ra cách chụp sách ổn thỏa. Tôi đang xin đến làm việc lại để tìm tất cả sách chữ Nôm, hay bị lẫn trong kho đã cho vào khu Trung Hoa (Thư viện Quốc hội Mỹ cũng bị thế khi người đi trước làm kho chữ Hán, vì sách chữ Nôm khi đóng bì mới ghi tên, và thường là tên Hán Việt).”

            Trong thời gian từ 1954 đến 1975, tại Miền Nam, nền văn chương Việt Nam nói chung được quảng bá rất nhiều qua các chương trình các cấp tiểu học, trung học và đại học, biết đến trong một số sách vở của các học giả tiền bối như Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Phạm Quỳnh v.v… hoặc dưới tài liệu giáo trình, nghiên cứu hay nhiều sách vở, báo chí của các nhà nghiên cứu, của các giáo sư Viện Đại Học Sài Gòn, Viện Đại Học Huế, Viện Đại Học Đà Lạt như Giáo sư Lê Văn Lý, Thanh Lãng, GS Trần Văn Toàn, GS Nguyễn Văn Trung, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Hảo, Lê Tuyên v.v… Tuy vậy, đa số các tài liệu Hán Nôm vẫn chưa được khai thác trọn vẹn bởi vì người biết chữ Hán quá ít, không mấy ai đọc nổi. Các tài liệu quý đều nằm ở Thư Viện Vatican, Thư viện ở Pháp như MEP hoặc Aix-en-Provence. Ngày nay có lẽ do nhu cầu tìm hiểu tôn giáo lịch sử ngày càng cao nên Tòa Thánh Rô ma đã đề nghị giới nghiên cứu văn học, sử học Việt Nam lưu tâm tới số tư liệu quý báu về chữ Hán chữ Nôm còn tàng trữ ở bên đó.

            Trong điện thư ngày 10 September gửi Giáo Sư Ngô Thanh Nhàn, tôi có viết ở đoạn 3 như sau: “Đối với một nhà nghiên cứu về tư liệu văn hóa Công Giáo, tôi nghĩ cần thiết phải có tinh thần tôn giáo, hay ít nữa thấm nhuần chút ít tư tưởng tôn giáo đó thì tư liệu mình muốn dịch mới phản ánh đúng tinh thần nguyên bản. Một dịch giả Phật Kinh, Cưu Ma La Thập, thế kỷ V – CN có nói: “Dịch văn là như nhai thức ăn giùm cho kẻ khác… Đây không phải dịch, nhưng đọc lại văn bản chữ Nôm, vấn đề vốn đơn giản hơn.” Giáo sư Nhàn đã kết như sau:

            3.-“Thầy nói điểm này đúng ý tôi. Khi trẻ tôi đọc triết và triết Âu châu, và các loại kinh tôn giáo. Tôi cần phải học thêm thần học Công giáo…và biết thêm giai đoạn lịch sử các giáo sĩ đến Việt Nam. Cách làm việc hết sức khiêm tốn và chăm chỉ, có óc khoa học, và rất giỏi chữ Nôm. Khó nhất không chỉ là cách phiên từ  tên la-tinh sang chữ Nôm, theo tiếng địa phương, và có sự thay đổi theo thời gian. Một từ trong Thánh Kinh, họ không dịch thẳng, mà tìm một câu tục ngữ, ca dao, v.v. để dịch từ ấy, và chủ nhật đem ra giảng. Không những thế họ làm chung một quyển đối chiếu, và chia nhau các bản chép lại. Cách chuyển ngữ la-tinh sang Nôm thay đổi, cách dịch từ Thánh Kinh sang chữ Nôm cũng thay đổi… theo thời gian. Do đó, chữ Nôm Công giáo là một cứ liệu ngôn ngữ học lịch sử tối quan trọng. Những điều ghi trong các từ điển này cũng quan trọng về mặt lịch sử, xã hội, tập tục, v.v.”

            Sau khi gửi những đoạn ghi trên kèm theo một tư liệu mà tôi tạm gọi là “Bản Lược Đồ 87 (Dublin Core Nôm), Giáo Sư Ngô Thanh Nhàn viết tiếp :

            4.-“Chỉ riêng tựa sách, tác giả, cộng sự, v.v. cũng lắm vấn đề… Tôi ví dụ như tên Giám mục viết bằng chữ Nôm… Đoạn này nhờ thầy chỉ giáo… Tôi có hỏi các cha ở Rôma, nhưng các cha cũng không rành… Cụ thể là tôi cần (a) một quyển từ điển công giáo, (b) một quyển sử công giáo ở Việt Nam, (c) một/nhiều quyển thần học Công giáo,… Nếu thầy biết tôi hết sức cám ơn. Nhờ có sách Công giáo mà tôi tìm ra dấu tích cũ Hát Xẩm, vốn là con hát ăn mày mù, nên sách Việt Nam không ghi. Cám ơn thầy, Nhàn.”

            Sau khi đọc kỹ các bức điện thư của Giáo Sư Ngô Thanh Nhàn, theo dõi trang Web ‘Nôm Studies với bản Report on 87 Dublin Core Nôm uncatalogued resources (Bản báo cáo Dublin về 87 tư liệu chữ Nôm chưa được sắp danh mục) cùng thưởng thức mục Hát xẩm trong Hát Xẩm,  Folk Songs of the Blind Traveling Beggars, nhận thức tầm quan trọng của chữ Nôm, nhất là những công trình mang tính tôn giáo, văn hóa, lịch sử và xã hội mà các vị thừa sai trước đây đã đóng góp,  tôi có những tìm tòi và góp ý như sau:

            2.- Bổ túc và làm rõ tên tác giả, ảnh hưởng tác phẩm qua các số mục của Bản báo cáo như sau :

            Khi đọc vào các bản văn Nôm Công Giáo, nhiều nhà nghiên cứu cảm thấy lúng túng về các tên thánh (thánh hiệu) được viết trước các tên thật thường sử dụng tên thánh chữ Hán Việt hoặc tên thánh phiên âm theo chữ Nôm, thí dụ khi nói về Giám Mục Pigneau de Béhaine, người ta hay viết Giám Mục Bá Đa Lộc, bởi vì Bá Đa Lộc 伯 多 祿  là âm Hán Việt phiên từ chữ Petrus hay Vê-rô thường gọi là Đức Thầy Vê-Rô.

            Sau đây chúng tôi xin đề cập đến một số đề mục của tài liệu chữ Nôm cần bổ túc hay biện giải:

No. 5: Thập giới quảng nghĩaGiám Mục Ca lỗ lơ Khiêm truyền tử [1865], 180 trang.

            Ở đây xin chú ý đến hai chữ  “Ca lỗ lơ Khiêm” và “truyền tử”. Ca-lỗ-lơ là do chữ Carolo trong ngôn ngữ Bồ Đào Nha mà dịch ra chữ Nôm, hoặc tiếng Tây Ban Nha là Carlos và qua tiếng Pháp là Charles. Giám Mục Ca-lỗ-lơ Khiêm chính là Giám mục Charles Hubert Jeantet, tên Việt là Khiêm. Còn hai chữ “truyền tử”傳 梓 có nghĩa khắc chữ lên bản gỗ cũng giống như chữ la-tinh Imprimatur (được phép in) trong các sách Công Giáo do các đấng bản quyền ban ra sách mới được phép in. Có khi sách đòi hỏi các chữ “Imprimi Potest” hoặc “Nihil Obstat” (Được phép in, Không có trở ngại). Giám mục Charles Khiêm không phải là tác giả sách “Thập giới quảng nghĩa” mà chỉ là đấng bản quyền cho phép in sách.

            Trong cuốn ‘Lịch sử Giáo Phận Vinh’ do Vương Đình Chữ chủ biên, Tập I nói về Công Giáo Nghệ-Tĩnh-Bình thời các thừa sai nước ngoài, do Định Hướng Tùng Thư in năm 2015, cùng một số gồm nhiều người tham gia biên soạn, ở trang 203 có ghi Đức Cha Guillaume Clément Masson Nghiêm là người ham thích viết và để lại nhiều công trình tu đức như: - Từ nguyên yếu lý (Doctrine chrétienne), Nhà in Nazareth, Hong Kong, 1897, 706 trang; Thập giới quảng nghĩa (Les commmandements). Nhà in Kẻ Sở, 1889, 260 trang.”  (trang 203)

            Trong cuốn sách của ba tác giả Lê Ngọc Bích (chủ biên), Lê Đình Bảng, Lê Thiện Sĩ, có tên “Giám Mục nước ngoài qua chặng đường 1659-1975 với các giáo phận Việt Nam, in năm 2009 do nhà xb. Tôn Giáo có ghi “ Trong thời gian Đức cha phó Masson làm Tổng đại diện Giáo phận trong năm 1843 đã phiên dịch nhiều tác phẩm:… “Thập giới quảng nghĩa và Bảy phép bí tích. (Les dix Commendements), 286 trang (Tân Định xuất bản 1880, nhà in Kẻ Sở 1889). Theo sách “Giám mục nước ngoài…” của ba tác giả họ Lê trích ở trên thì: “Tại chủng viện Kẻ Non, Đức Cha Retord (tên Việt là Liêu)tổ chức các cuộc bình thơ. Linh mục, chủng sinh và có cả các Nho sĩ cùng tham gia. Chủng viện trở thành như là một “Hàn lâm viện”. Đức Cha Jeantet làm thủ lĩnh. Ngài tinh thông Hán Nôm, kiến văn rộng, được nho sĩ Văn Thân trong địa phương trọng vọng.” ( Lê Ngọc Bích, Lê Đình Bảng, Lê Thiện Sĩ, trang 237).

            Tại Giáo phận Vinh có Văn khố Tòa Giám Mục Xã Đoài là nơi lưu trữ rất nhiều sách báo, tư liệu in và viết tay liên tục từ xưa tới nay, được bảo quản rất chu đáo, cẩn thận nên những gì đưa ra đều là những chứng liệu khả tín.

No.6 –No.19 Sách dạy tập đi đường nhân đức trọn lành: Phi li phê cố chính trung san thuật, Giám mục Gia cô phờ nhật vô [1865], Giám mục Ca lỗ lơ khiêm truyền tử.

            Phi-líp-phê Cố Chính Trung sửa bản in, Giám Mục Gia-cô-bê, vít-vồ, Giám Mục Charles Khiêm cho phép in.

            Chữ “Gia-cô-bê” là tên thánh James (tiếng Anh) hay Jacques (tiếng Pháp) của vị giám mục này. Trong Công Giáo Việt Nam thường dùng chữ “Gia-cô-bê”  chứ không dùng “Gia-cô-phờ”; các chữ Nôm đứng đầu như ph, v, b thì theo Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn, trong cuốn “Văn chương An-Nam” trang 163, xuất bản ở Tân-Định năm 1926, có thể đổi chữ đầu cho nhau, thí dụ “bốc” hay “vốc”, “phản” hay “ván”. Còn chữ “nhật vô”   trong bản văn thì có lẽ đó là viết nhầm hai chữ “viết-vô”   (hai chữ nhậtvà viết có tự dạng giống nhau, rất dễ nhầm) và thường đọc là “vít-vồ” do tiếng Bồ Đào Nha bispo có nghĩa “Giám Mục”. (Trần Văn Toàn, Đạo trung tùy bút, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 206; Võ Long Tê, Vascovo,  Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, trong tập Về sách báo của tác giả Công Giáo Thế kỷ XVII-XIX, TP HCM, 1993, trang 42). Chữ vít-vồ viết ở đây có thể dư, nhưng cũng không sao vì lập lại chức danh tác giả. Hai chữ “Đức Thầy” ngày xưa cũng dùng để chỉ chức Giám Mục; thầy cả để chỉ linh mục.

            Giám mục Gia-cô-bê ở đây có lẽ là Giám Mục Jacques Benjamin LONGER, tên Việt là Gia, đến Đại Việt năm 1790, từng là bạn của các tướng lãnh Tây Sơn như Ngô Văn Sở, Vũ Văn Dũng. Giám Mục này học vấn uyên thâm, thông thạo tiếng Việt và các văn tự Hán Nôm, rành lịch sử Việt Nam, cho lập nhà in, cho khắc chữ Nôm rồi in sách đạo, thay các bảng khắc gỗ bằng chữ rời, dựng nhà máy cắt và đóng sách, dạy kỹ thuật đúc và khắc chữ bằng đồng hay bằng chì.

            Giám mục Charles Hubert JEANTET, tên Việt là Khiêm, sinh ở cực Đông nước Pháp, năm 1819 qua VN truyền giáo, tinh thông Hán Nôm, Giám đốc Chủng viện Kẻ Non (Hà Nam), chết năm 1866, chôn ở Kẻ Non sau cải táng về Kẻ Sở.

            Ở đây thiết tưởng cũng nên nói rõ về chức danh Giám Mục, dựa theo các sách đã được phổ biến:

            -Giám Mục, Đức-: 主 教 (chủ giáo), Episcopus, Bishop, Évêque

            Đức (): mạo từ để tôn xưng; giám (): coi sóc; mục (): chăn dắt.

            Đức Giám Mục là người kế vị Các Thánh Tông Đồ, để chăm sóc mục vụ cho cộng đoàn Kitô hữu.

            Đức Giám Mục “nhận lãnh sự trọn vẹn của Bí Tích Truyền Chức Thánh (GH 21, 26), tiếp tục sứ mệnh của Chúa Gie6su là Thầy Dạy, Chủ Chăn, Thượng Tế. Nhiệm vụ chính của Đức Giám Mục là: giảng dạy, thánh hóa, hướng dẫn, chăm sóc cộng đoàn Dân Chúa được trao phó cho mình (x.GLHTCG 875). (Từ Điển Công Giáo 500 mục từ do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy ban Giáo lý Đức tin, Tiểu ban Từ Vựng, Nhà xb. Tôn Giáo , 2011, trang 124).

            Trong cuốn Dẫn vào thần họctác giả Thomas P. Rausch, S.J viết : “GIÁM MỤC: (bishop), từ này là một từ Anglo-Saxon do chuyển âm sai từ Latinh episcopus, có gốc ở từ Hy Lạp episcopos, nghĩa là “người giám sát”. Một giám mục là một người được truyền cho chức vụ cao nhất của sứ vụ trong Giáo Hội, Giám mục Rô ma thường được gọi là “giáo hoàng”, một tước hiệu có gốc ở từ Hy Lạp papas, và từ Latinh papa, nghĩa là “cha”. (Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, tr. 398).

            Cố Chính tức Linh mục Tổng Đại Diện của mỗi một Giáo phận (Vicarius generalis):  Phó chủ giáo, cha chính (cũ), vị linh mục thay mặt giám mục giáo phận đứng đầu việc hành chánh trong giáo phận (Nguyễn Đình Diễn, Từ Điển Công Giáo Việt Nam, Nhà xb. Đồng Nai, 2014, trang 2140).

            Bộ Sách dạy tập đi đường nhân đức trọn lành gồm 14 tập với tất cả 3304 trang phải là một công trình đồ sộ, do nhiều người đóng góp thực hiện qua nhiều thời đại.

No.20: Thánh giáo kinh nguyện: Giám Mục Xu Xay Chiêu truyền tử.

            Tên thánh Xu Xay gợi ra nhiều thắc mắc và có vẻ xa lạ với người Công Giáo Việt Nam thời nay. Tên Nôm Xu Xay ngày xưa, nay được chuyển ra thành Giu-se dựa trên âm tiếng Pháp Joseph.

            Đó là tên Giám Mục Giuse hay Joseph THEUREL, tên Việt là Đông (1853) và Chiêu (1859), sinh năm 1829 tại La Rochelle Pháp. Ngài đã soạn cuốn tự vị “Annam-Latinh và dịch một số sách giá trị.

            Joseph Theurel sinh ngày 27-10-1829 tại La Rochelle (Haute Saône), Pháp. Gia nhập Hội Truyền giáo Paris ngày 28-9-1849, thụ phong linh mục ngày 5-6-1852. Để chuẩn bị đi truyền giáo ở Việt Nam, Cha học nghề ấn loát trong 3 tháng, tìm hiểu kỹ thuật pha chế mực in, kỹ thuật ấn loát ở châu Âu, đúc chữ rời, sắp chữ.

            Năm 1852, xuống tàu qua Singapore, bắt đầu học tiếng Việt với chủng sinh người Việt ở Pe1nang. Sau đó, qua Hồng Kông thuê thuyền buồm đến Vĩnh Trị ngày 13-10-1853. Lúc này, Cha nhận tên Việt là Đông. Cha tiếp tục học tiếng Việt, và nói thành thạo sau hơn 3 tháng.

            Công việc đầu tiên của Thừa sai Theurel là tổ chức lại và cải tiến các nhà in đã có từ thời Đức cha Retord, thành lập nhà in chữ Nôm ở Kẻ Nhàu (Tân Độ), lập nhà in chữ ở Kẻ Vĩnh. Cha đúc 40.000 chữ rời để xếp thành bản in, in ấn theo kỹ thuật ở Âu châu thời bấy giờ. (Lê Ngọc Bích, Lê Đình Bảng và Lê Thiện Sĩ, Sách đã dẫn, trang 239).

No. 21: Thánh Mẫu phương danh : Bảo lộc Phan-chi-cô truyền tử : Đó là Giám Mục Paul Francois PUGINIER, tên Việt là Phước là một Giám mục nổi tiếng thông minh và nhiệt thành, đạo đức, làm Tổng Đại Diện tức Cố Chính năm 1865 tại Hà Nội sau lên Giám Mục.

No. 22: Chân đạo yếu lý:Giám mục Ca-lỗ-lơ Khiêm san thuật truyền tử:

            Sách “Chân đạo yếu lý”, tác giả là Đức cha Longer tức Jacques Benjamin Longer tên Việt là Gia mà ở số 6-19 chúng tôi có viết ở trên. Sách này được in ở Kẻ Sở năm 1883.

No.23Hội đồng tứ giáoChủ giáo nhã sắt Chiêu tân san truyền tử:

            Chủ Giáo là Giám Mục theo cách dùng chữ của người Công Giáo Trung Hoa, sách xuất bản 1880, nói về sự hòa đồng của Nho, Phật, Lão, Công Giáo. Đức Cha Chiêu là người cho phép san định lại mà truyền in sách này. Giám mục (Nhã  Sắt 若 瑟) có nghĩa là GM Giuse. Sách này do một tác giả vô danh viết nhưng có ảnh hưởng trong quần chúng. Trong sách “Giám mục các nước ngoài”…có ghi: “Trong quá trình hoạt động truyền giáo, người ta thấy rằng có những người vì thấy được chân lý của đạo, đã xin theo đạo, như các trường hợp: Ông thầy pháp ở làng Hòa Chúng, một họ đạo ở xứ Sầm Sơn, nhờ được đọc cuốn “Hội đồng tứ giáo” mà đã ngộ đạo, xin theo đạo mặc dù cha mẹ, vợ con đều không theo.” (Lê Ngọc Bích, Sách đã dẫn, trang 289).

No. 41Sách Dẫn đường nhân đức: Xu-xay Cố Mỹ san thuật, Bảo lộc Phan-chi-cô Phúc truyền tử.

            Sách này do Cha Tổng Đại Diện Mỹ sửa lại, Giám Mục Phao lô Phan-xi-cô Phước cho in.

No. 47: Nam Việt-Dương Hiệp tự vị do Giám Mục Jean-Louis TABERD tên Việt là TỪ biên soạn với sự đóng góp của Linh mục tử đạo Phan Văn Minh. Thật ra sách tự vị này tham chiếu phần lớn cuốn tự vị chép tay Dictionarium Anamitico-Latinum của Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đã soạn vào những năm 1772-1773.

No. 76I-nê tử đạo – Vãn : Tác giả vô danh nhưng bài vãn được truyền tụng rất nhiều, đã được in trong từ điển của Taberd (1838), và trong bản tiếng Pháp của Louvet, 1888 và được các nhà nghiên cứu văn học như Võ Long Tê đề cập đến nhiều lần.

No. 81, No 83, No. 85, No. 86 :  Giám Mục Idiđôrô hay Isidorus là tên của Giám Mục Isidore Colombert (1873-1894), tên Việt là Mỹ, người đã xây Vương Cung Thánh Đường Đức Bà ở Sài Gòn năm 1877.

[...]

. Trích từ nguồn: http://vnqvn.blogspot.com/2020/09/chu-nom-cong-giao.html

Chữ Hán - Nôm trong kiến trúc nhà thờ công giáo Việt Nam

 

Chữ Hán - Nôm trong kiến trúc nhà thờ công giáo Việt Nam

Ảnh: Nhà thờ Đại Ơn (Chương Mỹ - Hà Nội)

Những nhà thờ Công giáo Việt Nam cổ nhất tồn tại đến nay cũng chủ yếu chỉ được xây dựng kiên cố từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nay. Dù còn có những định kiến nhất định do lịch sử để lại, nhưng phải khảng định rằng nhà thờ Công giáo là những khối kiến trúc có giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử. Những nhà thờ được xây dựng theo phong cách “truyền thống” như Phát Diệm song song tồn tại cùng với những nhà thờ được xây dựng theo kiểu Baroque, Gothique, Roman… tạo nên sự đa dạng trong phong cách kiến trúc nhà thờ. Đặc biệt là trong kiến trúc của một số nhà thờ Công giáo còn thấy xuất hiện chữ Hán Nôm trong các văn bia, đại tự, câu đối… khiến nhiều người nghĩ đến tính hội nhập văn hoá của Công giáo vào xã hội Việt Nam. Di sản Hán Nôm trong các nhà thờ Công giáo không có nhiều, tuy nhiên tính chất thiểu số của nó đã đem lại nhiều giá trị đáng trân trọng.

Bước đầu thống kê, chúng tôi cho rằng hiện nay các nhà thờ có chứa di sản chữ Hán-Nôm (gồm bia ký, câu đối, đại tự) đã được biết tới là(1):

1. Nhà thờ Đại Ơn (Chương Mỹ - Hà Nội)(2): có bia đề thơ, cổng nhà thờ có câu đối chữ Hán.

2. Nhà thờ Hà Hồi (Thường Tín - Hà Nội): có câu đối.

3. Nhà thờ Tri Thuỷ (Phú Xuyên - Hà Nội): có hai tấm bia đá nhỏ, một tấm khắc năm 1924, 1 tấm khắc năm 1927.

4. Đền Thánh Phêrô Lê Tuỳ (Bằng Sở - Thường Tín - Hà Nội): tấm bia ký mới được dựng lại ở đây có lẽ có tuổi đời rất lâu, chữ đã mờ mất khá nhiều.

5. Nhà thờ Phùng Khoang (Từ Liêm - Hà Nội): có bia hậu, cổng nhà thờ có câu đối chữ Nôm.

6. Nhà thờ Phú Mỹ (Phú Xuyên - Hà Nội): có các chữ Nôm phiên âm tiếng nước ngoài, câu đối, được đắp trên một số bộ phận của nhà thờ.

7. Nhà thờ Từ Châu (Thanh Oai - Hà Nội): có khá nhiều câu đối, đại tự.

8. Nhà thờ Thạch Bích (Bích Hà - Thanh Oai - Hà Nội): có câu đối.

9. Nhà thờ Xâm Dương (Sở Hạ - Thường Tín - Hà Nội): có câu đối trên chất liệu gỗ.

10. Nhà thờ Ổ Thôn (Bình Phú - Thạch Thất - Hà Nội)(3): có bia hậu.

11. Nhà thờ Xuân Hoà (Bạch Đằng - Tiên Lãng - Hải Phòng): có bia hậu.

12. Nhà thờ Tiên Đôi Ngoại (Đoàn Lập - Tiên Lãng - Hải Phòng): có bia hậu.

13. Nhà thờ Đức Bà (Trung Lao - Trung Đông - Nam Ninh - Nam Định): có bia công đức.

14. Nhà thờ Vinh Sơn (Trung Lao-Trung Đông-Nam Ninh-Nam Định): có bia công đức.

15. Nhà thờ Kẻ Vĩnh (Ngân Trị-Ý Yên-Nam Định): có các bức đại tự được đắp trên cửa mặt tiền nhà thờ.

16. Nhà thờ Phú Nhai (Xuân Thuỷ-Nam Định)(4): có bia viết về nhân vật lịch sử cụ thể.

17. Nhà thờ Hảo Nho (Yên Lâm-Tam Điệp-Ninh Bình): có câu đối, đại tự.

18. Nhà thờ Quảng Nạp (Yên Thắng-Yên Mô-Ninh Bình): có câu đối, đại tự ở mặt tiền nhà thờ.

19. Nhà thờ Phát Diệm (Kim Sơn-Ninh Bình): có câu đối, đại tự.

20. Nhà thờ giáo họ Vinh Trung (Kim Sơn-Ninh Bình): có các đại tự, câu đối được đắp tại mặt tiền nhà thờ.

21. Nhà thờ Ba Làng (Tĩnh Gia-Thanh Hoá): có đại tự tại mặt tiền nhà thờ.

22. Nhà thờ Lăng Cô (Phú Lộc- Thừa Thiên Huế): có bức cuốn thư bằng gỗ sơn son ghi chữ Hán được thếp vàng.

23. Nhà thờ An Vân (Hương Trà-Thừa Thiên Huế): chữ Hán Nôm xuất hiện với nhiều hình thức đa dạng.

24. Nhà thờ Phủ Cam (Thành Phố Huế): có bia viết về nhân vật lịch sử cụ thể.

25. Nhà thờ Cha Tam (Quận 5-Tp Hồ Chí Minh): có đại tự ở cổng vào nhà thờ, ở cửa vào gian chính, và có câu đối bên trong nhà thờ.

26. Nhà thờ Tân Hoà (Quận Phú Nhuận-Tp Hồ Chí Minh): có đại tự và câu đối ở mặt tiền nhà thờ.

Ngoài ra chữ Hán, chữ Nôm còn được khắc, hoặc đúc trên những quả “chuông Nam(5)” được tìm thấy tại một vài nhà thờ, như chuông ở nhà thờ Trường An (thành phố Huế), Đốc Sơ (Thành phố Huế), Lưu Phương Thượng, Phát Diệm Thượng (Ninh Bình),… hoặc được khắc trên mộ của Nguyễn Trường Tộ (Hưng Nguyên-Nghệ An).

Có thể tạm chia bia ký ghi bằng chữ Hán, Nôm được tìm thấy tại các nhà thờ Công giáo Việt Nam làm: bia hậu và bia ký ghi công đức một danh nhân nào đó, ghi lại công việc tạo lập cộng đồng Công giáo, hoặc việc kiến thiết nhà thờ. Hầu hết những tấm bia tại nhà thờ Công giáo Việt Nam đều ra đời từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX (tức là từ thời điểm người Pháp bắt đầu thực hiện chính sách loại bỏ chữ Hán, chữ Nôm ở Việt Nam, đến khi đến khi chữ Quốc ngữ có được địa vị chắc chắn). Sự xuất hiện của bia đá ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm tại nhà thờ Công giáo Việt Nam trong khi chính quyền thực dân đã hạn chế thứ chữ này có thể xem là hiện tượng thú vị. Cũng có thể coi đây là dấu hiệu hội nhập văn hoá của Công giáo Việt Nam, khiến ta có thể so sánh vị trí của nhà thờ Công giáo với một ngôi chùa, một đình làng truyền thống.

Số nhà thờ Công giáo được trang trí các câu đối, hay các bức đại tự viết bằng chữ Hán-Nôm chỉ là thiểu số so với số lượng nhà thờ Công giáo tại Việt Nam. Ngoại trừ hai nhà thờ có nhiều câu đối với lối kiến trúc bên trong đậm chất truyền thống là Từ Châu, Xâm Dương…, số lượng chữ Hán, chữ Nôm trong các câu đối, đại tự trong nhưng nhà thờ còn lại không lớn, thậm chí ở một số nhà thờ chỉ lác đác vài ba chữ Hán mang ý nghĩa trang trí là chính.

Nội dung của những câu đối, đại tự này phần lớn đều nhằm ngợi ca nhà thờ, hạnh tích các thánh hoặc các vấn đề thần học của Công giáo. Tương tự phong cách thường thấy trong nhiều công trình kiến trúc khác của người Việt Nam, phần lớn số câu đối, đại tự ở nhà thờ Công giáo Việt Nam đều xuất hiện ở mặt tiền, cổng ra vào hoặc các cột trụ của nhà thờ. Ở một số câu đối, đại tự ta còn bắt gặp các điển tích cổ của Việt Nam, Trung Quốc, hoặc phương Tây.

Tuy rằng ở nhiều nhà thờ việc gìn giữ di sản nói chung, di sản chữ Hán, Nôm nói riêng rất được coi trọng, nhưng do sự gián cách của lịch sử nên những di sản này đang có nguy cơ bị mai một. Đây là điều đáng tiếc bởi nhà thờ Công giáo cũng là một yếu tố gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc, và cần được quan tâm gìn giữ một cách đúng mức.  


Chú thích:

(1). Trong một số nhà thờ còn xuất hiện những chữ Latinh trên một số bộ phận kiến trúc, hoặc có bia đá viết bằng chữ Quốc ngữ. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới chữ Hán, Nôm.

(2). Con số chúng tôi đưa ra chưa thể là con số đầy đủ bởi việc khảo sát hàng trăm nhà thờ Công giáo tại Việt Nam để thống kê những nhà thờ có chữ Hán-Nôm là một công việc khó khăn nằm ngoài khả năng ở thời điểm hiện tại của chúng tôi.

(3). Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Kỷ yếu trao đổi khoa học Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam, Hà Nội, 2003.

(4). Nguyễn Hồng Dương, Nhà thờ Công giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 2003, tr 73-78.

(5). Tức là những quả chuông giống chuông chùa, khác với chuông kiểu phương Tây.

Nguyễn Thế Nam - Viện Nghiên cứu Tôn giáo

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.491-495, phiên bản trực tuyến ngày 09.02.2015.

Đăng lại từ: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/h%C3%A1n-n%C3%B4m/7054-ch%E1%BB%AF-h%C3%A1n-n%C3%B4m-trong-ki%E1%BA%BFn-tr%C3%BAc-nh%C3%A0-th%E1%BB%9D-c%C3%B4ng-gi%C3%A1o-vi%E1%BB%87t-nam.html

Khái lược về Hán Nôm Công Giáo

 


NGUYỄN THẾ NAM*

* Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam.

Nghiên cứu Tôn giáo, số 3 (153), 2016, 65-79

 

KHÁI LƯỢC VỀ HÁN NÔM CÔNG GIÁO

Tóm tắt: Hán Nôm Công giáo phát triển trong giai đoạn từ thế kỷ XVII - XX, với công sức của nhiều thế hệ giáo sĩ, giáo dân và các cộng sự của họ, cả người theo Công giáo không theo Công giáo. Có những cách hiểu khác nhau về Hán Nôm Công giáo dẫn đến những cách phân loại khác nhau đối với loại thư tịch này. Nhờ vào nỗ lực phiên âm, dịch nghĩa, biên soạn thư tịch Hán Nôm Công giáo của nhiều thế hệ, hiện nay nhiều liệu Hán Nôm đã được tìm thấy, phiên dịch và phổ biến. Quá trình nghiên cứu về Hán Nôm Công giáo vẫn còn tiếp diễn với những khó khăn về mặt giải văn bản.

Từ khóa: Nôm đạo, Hán Nôm, Công giáo.

 

1.  Dẫn nhập

Hán Nôm Công giáo là một thuật ngữ không còn quá xa lạ đối với nhiều người, tuy nhiên trong một thời gian dài chúng chưa thực sự thu hút được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Điều này có nguyên nhân chủ yếu từ sự gián cách theo chiều lịch sử dẫn đến việc đại bộ phận người Công giáo không thể đọc được các văn bản Hán Nôm Công giáo. Dù một vài cuốn sách Hán Nôm Công giáo từ rất sớm đã được xuất bản kèm với bản tiếng Việt, trong vài thập niên gần đây các sách các tư liệu Hán Nôm Công giáo đã được một số người bỏ ra nhiều công sức để dịch thuật, in ấn và phổ biến, nhưng ngay cả những bản phiên âm, dịch nghĩa Hán Nôm sang chữ Quốc ngữ cũng có thể gây nhiều khó khăn cho người tiếp cận nếu chúng không được chú giải về mặt ngữ nghĩa. Những đặc điểm trên hiển nhiên gây ra nhiều khó khăn cho việc nghiên cứu Hán Nôm Công giáo. Do vậy trong những nghiên cứu, bàn luận về Hán Nôm Công giáo vẫn còn tồn tại những khác biệt trong quan niệm về đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Bài viết này nhằm khái quát hóa một cách sơ lược về sự hình thành Hán Nôm Công giáo, cùng với đó các quan niệm, các nghiên cứu và một vài đúc kết về ý nghĩa của Hán Nôm Công giáo, từ đó đưa ra một cách nhìn chung về dạng thư tịch khá thú vị này.


   

2.  Sự hình thành các quan niệm về Hán Nôm Công giáo

2.1.  Về sự hình thành Hán Nôm Công giáo

Vào thế kỷ XVI, XVII ở Việt Nam, chữ Hán là văn tự được sử dụng chính thức trong các công việc hành chính, những người địa vị tầm ảnh hưởng đều phải học qua chữ Hán, trong khi đó chữ Nôm nhiều khi vẫn bị giới Nho đả kích1 đã gốc rễ khá vững chắc trong văn hóa, dân gian. Yếu tố văn tự cùng với một nền văn hóa đã đạt đến một trình độ nhất định của người Việt khiến những nhà truyền giáo nếu muốn thành công tại các vùng đất của người Việt thì buộc phải có những thích ứng một cách linh hoạt sao cho phù hợp với văn hóa bản địa. Việc học chữ Hán, chữ Nôm và cho xuất bản các thư tịch Hán Nôm Công giáo cùng với quá trình phát triển chữ Quốc ngữ là những biểu hiện sinh động của quá trình hội nhập văn hóa đó.

Sách Hán Nôm Công giáo Việt Nam, theo Linh mục Nguyễn Hưng, xuất hiện từ khi cộng đồng Công giáo có mặt ở Việt Nam từ thế kỷ XVII cho đến đầu thế kỷ XX2. Những người mở đường cho sự ra đời của các thư tịch Hán Nôm Công giáo các giáo Dòng Tên. Nhưng trên thực tế, không chỉ những giáo Dòng Tên như Jeronimo Maiorica3 mới cho biên soạn sách Hán Nôm Công giáo, mà ngay cả những giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai Paris, dòng Đa Minh… cũng tích cực thực hiện công việc này, ví dụ trường hợp của Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) với cuốn từ điển Nôm đầu tiên, hay một số khá lớn thư tịch Hán Nôm Công giáo của các giáo khác đã được kể tên trong danh mục Hán Nôm Công giáo mà Nguyễn Hưng đã công bố. Những nhân vật tiêu biểu, bỏ nhiều công sức biên soạn (san thuật), in ấn (truyền tử) các loại sách Hán Nôm Công giáo có thể kể đến là: Linh mục Jeronimo Maiorica (1589 -1656), Giám mục Ca-rô-lô Khiêm (Charles Hubert Jeantet, 1792 - 1866), Giám mục Pierre Munagorri Trung (1907 - 1936), Giám mục Pierre Marie Gendreau Đông (1892 - 1935),…

Chúng tôi nhận thấy rằng, trên thực tế vẫn nhiều thư tịch Hán Nôm được những tổ chức, xứ, họ đạo cho ra đời dưới dạng bi vào thời điểm khá gần đây4. Những thư tịch này có thể là những bia hậu, bia ghi công đức, những văn bia có nội dung liên quan đến hoạt động giáo dục hoặc ghi chép những quy định trong đời sống đạo của người Công giáo.

Các thư tịch Hán Nôm Công giáo bằng nhiều cách đã được lưu truyền trong dân gian hoặc do chiến tranh bị tản thất, đốt phá. Có thể khẳng định số lượng thư tịch Hán Nôm Công giáo, cũng giống như các thư tịch Hán Nôm khác không thể giữ được con số ban đầu khi chúng ra đời, và số lượng tản thất các thư tịch Hán Nôm Công giáo thể còn lớn hơn so với thư tịch Hán Nôm thông thường vì những lý do khách quan đem lại.

Mở rộng thêm, với khái niệm Hán Nôm liên quan đến Công giáo, sự góp mặt của mảng đề tài văn học, lịch sử, bi ký, hương ước, hoành phi câu đối… thậm chí cả những ấn phẩm chống Công giáo, hay những ấn phẩm được xuất bản tại các nhà in Công giáo, chúng ta sẽ thấy sự phát triển đa dạng của loại thư tịch này những giá trị của chúng nhờ lịch sử hình thành và phát triển gần bốn thế kỷ đem lại.


2.2.  Về khái niệm Hán Nôm Công giáo

Hiện nay, giới nghiên cứu thường sử dụng hai thuật ngữ Hán Nôm Công giáo Nôm đạo để gọi chung loại văn bản Hán Nôm liên quan đến Công giáo. Về mặt từ vựng, có thể hiểu các thuật ngữ trên như sau:

Khái niệm Hán Nôm Công giáo được ghép từ hai từ “Hán Nôm” và “Công giáo”, trong đó: Hán Nôm là một từ ghép, dùng để chỉ một loại thư tịch được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, hoặc kết hợp giữa chữ Hán với chữ Nôm (hoặc thậm chí kết hợp giữa chữ Hán, Nôm với một số ngôn ngữ khác). Hiện nay, từ Hán Nôm được dùng gắn liền với một ngành khoa học nghiên cứu loại văn tự này - Ngành Hán Nôm học; Công giáo nhánh Kitô giáo phía Tây Châu Âu, với trung tâm quyền lực tập trung nhất nằm ở Roma (La Mã), nên còn được gọi là Công giáo La Mã để phân biệt với nhánh Kitô giáo ở miền Đông Châu Âu được tách ra từ thế kỷ XII Chính Thống giáo. Công giáo La hưởng lợi nhiều từ các cuộc phát kiến địa lý, chinh phục thuộc địa từ sau thế kỷ XV của các đế quốc Tây Âu5, được truyền đi khắp thế giới, trong đó Việt Nam. Tại Việt Nam, thật ngữ Hán Nôm Công giáo trở nên phổ biến hơn sau khi cuốn Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo (năm 2000) ra đời nhờ công sức sưu tầm, dịch thuật của nhóm Hán Nôm do Linh mục Nguyễn Hưng đứng đầu.

Chúng tôi coi Hán Nôm Công giáo 漢喃公教 là một bộ phận của di sản tư liệu của Công giáo tại Việt Nam6. Thuật ngữ này dùng để chỉ những liệu thành văn do người Công giáo thực hiện hoặc tổ chức thực hiện, được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, có nội dung tự thân viết về những vấn đề liên quan đến Công giáo, nhằm mục đích chính là truyền đạo, hướng dẫn, duy trì các thực hành tôn giáo, và biện luận về đạo.


Ngoài ra, còn xuất hiện cụm từ Hán Nôm liên quan đến Công giáo, được sử dụng trong cuộc hội thảo với chủ đề Tìm hiểu nguồn liệu Hán Nôm liên quan đến Công giáo do Viện Nghiên cứu Tôn giáo tổ chức vào tháng 5 năm 2003. Bản thân cụm từ Hán Nôm liên quan đến Công giáo đã bao hàm toàn bộ các loại hình văn bản, cho đến thác bản Hán Nôm viết về Công giáo hoặc do người Công giáo tạo ra.

Về thuật ngữ Nôm đạo 喃道, chúng tôi cho rằng Nôm đạo trước hết là văn bản chữ Nôm được sử dụng để ghi chép về những vấn đề khác nhau của Công giáo. Hoàng Xuân Việt cho rằng: “Nôm đạo là chữ Nôm được sử dụng trong phạm vi đạo Thiên Chúa, tất nhiên phần lớn nhằm mục đích truyền đạo. Các văn bản chữ Nôm đạo hiện còn có thể giúp ta thấy được tính thống nhất của tiếng Việt vào thế kỷ thứ 17”7. Những chữ Nôm này không hoàn toàn giống với chữ Nôm thông dụng, mà có một số chữ dị thể, hoặc cách đọc khác biệt với cách đọc thông thường. Thuật ngữ Nôm đạo được nhắc đến khá nhiều trong các nghiên cứu của Đỗ Quang Hưng. Tuy nhiên, nội hàm của nó tương đối hẹp, không đủ để bao quát toàn bộ số lượng thư tịch Hán Nôm liên quan đến Công giáo đã hoặc chưa được biết tới.

Tóm lại, chúng tôi cho rằng Hán Nôm Công giáo là khái niệm rộng, bao chứa khái niệm Nôm đạo. Vì Nôm đạo chỉ bao gồm các dạng thư tịch chữ Nôm nói về Công giáo8, trong khi đó, Hán Nôm Công giáo bao gồm cả các dạng văn bản chữ Hán và chữ Nôm có nội dung liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc niềm tin và thực hành tôn giáo của cộng đồng người Công giáo ở Việt Nam9. Còn khái niệm Hán Nôm liên quan đến Công giáo có nội hàm rộng hơn, gồm cả những thư tịch do người ngoại đạo viết bằng chữ Hán - Nôm về Công giáo, hoặc người Công giáo viết về những vấn đề ngoài Công giáo. Các khái niệm này được nhắc đến và được sử dụng nhiều từ khoảng những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX.


3.  Cách phân chia các loại hình Hán Nôm Công giáo

3.1.  Về số lượng thư tịch Hán Nôm Công giáo phân theo loại hình

Thống kê về số lượng thư tịch Hán Nôm Công giáo được công bố rải rác trong nhiều nghiên cứu khác nhau. Về phía Công giáo, những công bố của Nguyễn Hưng, hay Trần Anh Dũng được nhiều người biết đến ở mức độ phong phú về tư liệu Hán Nôm Công giáo được các tác giả đưa ra.


Chẳng hạn, trong Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, Nguyễn Hưng đưa ra 308 ấn phẩm Hán Nôm Công giáo với 12 phân loại. Số thư tịch này, cổ nhất là được viết tay (như các sách của Maiorica); muộn hơn thì được truyền tử (in), và các nhà in chủ yếu là Kẻ Sở, Phú Nhai, Tân Định, Nazareth (Hồng Kông); số còn lại được in ấn gần đây, chủ yếu là sách dịch và các bài nghiên cứu. Về số lượng từng loại, nhiều nhất là loại sách Truyện các thánh với 102 cuốn; sau đó là loại sách Tu đức - đạo đức có 74 cuốn; có số lượng rất ít là loại Thư chung (5 bản), và loại Sắc chỉ - trướng - câu đối - bia mộ (5 cuốn); các loại khác có số lượng tương đương nhau. Tuy nhiên, vẫn có nhiều ý kiến không thực sự đồng tình với cách phân loại của Nguyễn Hưng, và cho rằng việc chia nhỏ các bộ sách lớn hay việc coi một vài bộ từ điển, tự điển chữ Nôm mới xuất bản trong thời gian gần đây là Hán Nôm Công giáo dường như chỉ là cách làm nhằm làm tăng độ dầy của cuốn sơ thảo về thư mục Hán Nôm Công giáo.


Về di sản Hán Nôm Công giáo còn lưu trữ trong các quan nhà nước, có nhiều thống kê khác nhau mà trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ điểm qua một vài ví dụ dưới đây:


Trong Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu, mục di sản Hán Nôm liên quan đến “Thiên Chúa giáo” chỉ đưa ra được 11 văn bản10 Hán Nôm Công giáo hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, con số này thực sự quá khiêm tốn, và không phản ánh đúng tính phong phú của di sản Hán Nôm Công giáo.


Theo Nguyễn Nhí11, Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ được một số sách in Nhà thờ Phát Diệm. Ông cũng cách phân loại khá thú vị về Hán Nôm Công giáo, với hai loại Văn khắc, và Sách Hán Nôm, trong đó: Văn khắc gồm chuông đồng, bia đá, ván khắc gỗ, chủ yếu lưu giữ ở nhà thờ Công giáo; Sách Hán Nôm (được ông chia làm 3 loại): 1/ Sách giảng giải về đạo Thiên Chúa và sự tích các thánh; 2/ Các sách nói về hoạt động của giáo dân ở các xứ đạo; 3/ Các sách ghi lại quan điểm của nhà Nho đối với đạo Thiên Chúa.


Trong nghiên cứu của Minh Hằng, số thư tịch Hán Nôm Công giáo lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Thư viện Quốc gia Paris, Pháp mà tác giả đưa ra 35 ấn phẩm12, được chia thành 6 mục loại là: Truyện các thánh; Sách bổn; Văn thơ Công giáo13; Hương ước Công giáo; Sách viết về vấn đề giáo dục; Từ điển, tự điển sách tra cứu; Thư tịch liên quan đến chính sách của triều đình với Công giáo14; Sách có nội dung phục vụ nghiên cứu, học tập về Công giáo. Tuy nhiên, trong danh mục này việc phân loại Hán Nôm liên quan đến Công giáo với Hán Nôm Công giáo cũng chưa được chú ý.


Có thể thấy trong các nghiên cứu về Hán Nôm Công giáo không có một tiêu chí chung thống nhất khi phân loại các nhóm nội dung Hán Nôm Công giáo khác nhau. Nguyên nhân trên cộng với sự không đầy đủ tản mát về tư liệu, cũng như các thông tin về liệu Hán Nôm liên quan đến Công giáo đã khiến cho những thống kê về số lượng và loại hình tư liệu Hán Nôm Công giáo có độ vênh nhau khá lớn.


3.2.  Các tiêu chí để phân loại Hán Nôm Công giáo

Để thống nhất về cách phân loại Hán Nôm Công giáo, cần các tiêu chí phân loại chúng, theo chúng tôi nên dựa trên các tiêu chí dưới đây:

-  Tiêu chí chữ viết: Chữ Hán, chữ Nôm, hoặc kết hợp cả hai thứ chữ này.

-   Tiêu chí chất liệu: Giấy, gỗ, đá, và hiện nay đã có một số thư tịch được số hóa.

-   Tiêu chí tác giả: Được người Công giáo thực hiện. Nếu không đáp ứng tiêu chí này thì phải xét trên tiêu chí nội dung.

-   Tiêu chí nội dung: Sách, văn khắc hoặc các loại hình văn bản khác có nội dung xoay quanh cách thực hành, niềm tin, cộng đồng Công giáo; hoặc nói về chủ đề liên quan đến trực tiếp đến các vấn đề thời sự thiên về nội bộ của cộng đồng Công giáo.

Căn cứ vào chất liệu, thể chia Hán Nôm Công giáo thành 2 loại:

Sách Văn khắc, trong đó:

-   Sách Hán Nôm Công giáo gồm các văn bản được chép tay hoặc được khắc in như: kinh, bổn, truyện các thánh, sổ ghi danh, tự điển hoặc từ điển cổ mang nhiều dấu ấn Công giáo, thơ văn Công giáo cả một số cuốn sách do những người Công giáo viết15.

-  Văn khắc Hán Nôm Công giáo chủ yếu được lưu trữ tại các giáo xứ, các bộ sưu tập cá nhân, gồm các loại như: văn bia, câu đối, hoành phi, ván khắc... theo thống kê bước đầu của chúng tôi, số lượng hiện tồn của loại hình tư liệu này không nhiều.

Nhìn chung, thư tịch Hán Nôm Công giáo có số lượng khá lớn và cũng khá đa dạng về loại hình, nhiều thư tịch chỉ còn giữ lại được tên chứ chưa tìm được bản gốc. Điều này đã được chỉ ra trong thống của Linh mục Nguyễn Hưng, dù mới chỉ là bản “sơ thảo”. Tuy nhiên, dường như bản “sơ thảo” đó đã khiến cho nhiều người có cái nhìn lạc quan thái quá về mức độ phong phú của “kho báu Hán Nôm Công giáo”. Ở một khía cạnh khác, chúng tôi cho rằng cũng không nên gộp những văn bản hành chính của triều đình nhà Nguyễn vào danh mục Hán Nôm Công giáo mà chỉ nên xếp vào danh mục Hán Nôm liên quan đến Công giáo mà thôi. Đối với một vài bộ tự điển, từ điển được người Công giáo như Vũ Văn Kính hay Trần Văn Kiêm xuất bản trong thời gian gần đây, chúng tôi cho rằng cũng không nên gộp chúng vào danh mục Hán Nôm Công giáo dù do người Công giáo thực hiện sự hình thành của chúng dựa nhiều vào các liệu Hán Nôm Công giáo nhưng chúng phục vụ công cộng và khó có thể tìm được tính Công giáo trong đó.


3.  Việc phiên âm, dịch thuật, nghiên cứu Hán Nôm Công giáo

3.1.  Về việc phiên âm, dịch thuật Hán Nôm Công giáo

Ngay từ khá sớm đã một số thư tịch Hán Nôm Công giáo được xuất bản kèm với bản chữ Quốc ngữ. Không ít tác phẩm Hán Nôm Công giáo đã được dịch thuật hoặc san định với công sức của nhiều người. Có thể nhắc đến Giám mục Hồ Ngọc Cẩn (1876 - 1948) là một trong những người được biết đến có nhiều nỗ lực làm công việc này.


Trong những năm 50 của thế kỷ trước, Hoàng Xuân Hãn đã những nghiên cứu khá đa dạng và công phu về kho tư liệu Hán Nôm lưu trữ tại Pháp, những công trình này được tập hợp trong ấn phẩm cùng tên - La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (1908 - 1996)16. Nhưng phải đến những năm 70 của thế kỷ XX, các linh mục Công giáo hoặc những người đặc biệt tâm huyết với chữ Nôm như Văn Kính, Trần Văn Kiệm17, Thanh Lãng, Nguyễn Hưng mới thực sự vãn hồi tầm ảnh hưởng của di sản Hán Nôm Công giáo. Chúng tôi xin được điểm lại bước ngoặt này dựa theo những thông tin đã được công bố một cách rộng rãi:


Thanh Lãng (Đinh Xuân Nguyên, 1924 - 1978) là linh mục, đồng thời cũng là là người giảng dạy ngữ văn ở bậc đại học, những nghiên cứu của ông chủ yếu tập trung vào các sách văn học viết bằng Hán Nôm, có liên quan đến Công giáo. Một trong những công trình có ý nghĩa của ông là đã góp phần cung cấp tài liệu, rồi sao chụp và xuất bản toàn bộ cuốn Sách sổ sang chép các việc do linh mục Dòng Tên Philiphê Bỉnh viết xong tại Lisbonne (Bồ Đào Nha) năm 1822. Cũng chính Linh mục Thanh Lãng đã giới thiệu sách này và Viện Đại học Ðà Lạt cho xuất bản năm 1968. Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, Linh mục Thanh Lãng quy tụ một số nhà nghiên cứu như các linh mục Đỗ Quang Chính (sử học), Nguyễn Hưng (ngữ học), các ông Hoàng Xuân Việt, Vũ Văn Kính chuyển sang nghiên cứu các vấn đề lĩnh vực ngôn ngữ, như các tư liệu chữ Nôm được lưu trữ tại Thư viện Vatican mà ông sưu tập khi du học tại đây.


Người được xem là rất tâm huyết với Hán Nôm học, nhà nghiên cứu Vũ Văn Kính đã bỏ ra rất nhiều công phu khảo cứu các sách Nôm, như vi phiếu về Nôm Thiên Chúa, bản chụp lại bản chép tay của Maiorica viết xong vào ngày 12 tháng 7 năm 1648 (vào niên hiệu của vua Lê Chân Tông (1643 - 1649); nghiên cứu chữ Nôm ở tác phẩm Hội đồng tứ giáo (2 bản) in chép tay; cùng một số bản thư của các thừa sai gửi về Roma (thế kỷ XVII, XVIII), và khá nhiều tác phẩm Nôm về kinh, truyện của Công giáo (hoặc được in mộc bản, in kẽm hoặc được viết tay).


Nguyễn Hưng một linh mục tốt nghiệp ngành ngữ văn tại Châu Âu, những đóng góp cũng như uy tín của ông đối với Hán Nôm Công giáo là rất lớn. Ông cùng các cộng sự đã dày công sưu tầm, phiên âm một số lượng khá lớn sách Hán Nôm Công giáo. Cuốn sách Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam (lưu hành nội bộ) cho tới nay cũng được xem cuốn sách đưa ra được danh mục thư tịch Hán Nôm Công giáo có số lượng lớn nhất.


nước ngoài, đặc biệt tại Hoa Kỳ, Hán Nôm Công giáo cũng được chú ý dịch thuật, số hóa18. Đây có thể coi là một biểu hiện cho sự phát triển của trào lưu nghiên cứu về Việt Nam tại Bắc Mỹ trong vài thập niên gần đây.


Ngoài ra, Hán Nôm Công giáo còn được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước dịch thuật, giới thiệu trong những công trình nghiên cứu của mình19.


3.2.  Vài nét chính về việc nghiên cứu Hán Nôm Công giáo

Hán Nôm Công giáo thường được tiếp cận nghiên cứu ở khía cạnh ngôn ngữ học. Từ năm 1953, sau khi tìm thấy trong thư khố ở Paris những thư tịch chữ Nôm viết về Công giáo Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn đã chọn ra 12 tác phẩm của Maiorica để viết một luận văn rất công phu, nhan đề: Girolamo Majorica, ses oeuvres en langue Vietnamienne conserves à la Bibliothèque Nationale de Paris (tạm dịch Girolamo Majorica, các ngôn ngữ Việt của ông được lưu trữ trong thư viện quốc gia Paris), sau đó được in đặc san Achivium Historium Societatis Jesu (Rome) - Tome XXII, 1953, tr. 203-204. Đây cũng hướng tiếp cận chủ yếu trong trong một vài công trình luận văn, luận án được thực hiện trong thời gian gần đây20.

Ở khía cạnh văn hóa học và tôn giáo học, không ít những bài nghiên cứu độc lập về Hán Nôm Công giáo đã được công bố, nhưng đây chúng tôi chỉ xin điểm qua một số cuộc hội thảo có vai trò lớn trong việc giới thiệu giá trị của Hán Nôm Công giáo:

Cuộc tọa đàm tại Tòa Tổng Giám mục Huế với chủ đề Một số vấn đề văn hóa Công giáo Việt Nam” diễn ra từ ngày 24 đến 27 tháng 10/2000, quy tụ các nhà nghiên cứu, các nhà Sử học, giáo sư tiến sĩ, từ Bắc chí Nam, không phân biệt tôn giáo, nghiên cứu về văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa Công giáo;

Cuộc tọa đàm do Viện Nghiên cứu Tôn giáo tổ chức ngày 25/5/2003 với việc cho ra đời “Kỷ yếu trao đổi khoa học Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam cũng rất đáng được chú ý. Trong cuộc hội thảo này, có thể tìm thấy những nghiên cứu, hay những cách phân loại những đề xuất thú vị về việc nghiên cứu Hán Nôm Công giáo. Trong đó, Đỗ Quang Hưng đã chỉ ra giá trị của những tư liệu Hán Nôm Công giáo đối với: Nghiên cứu lịch sử tôn giáo và với lịch sử Công giáo ở Việt Nam, như: Tây Dương Gia tô bí lục của Phạm Ngộ Hiên và Nguyễn Hòa Đường (giữa thế kỷ XIX); Thuật tích việc nước Nam (Thuật tích nước Nam vãn) của Linh mục Đặng Đức Tuấn (cuối thế kỷ XIX); ý nghĩa với lịch sử truyền giáo (sách giáo lý/ sách bổn): Thiên Chúa chân đạo dẫn giải toàn thư; Thiên Chúa giáo tứ tự kinh văn; cho đến việc đi vào các hướng mục vụ sâu hơn: Các Thánh tử đạo; Lộ Đức Thánh mẫu; Thánh ông Thánh Giuse; Tháng cầu cho các linh hồn nơi lửa giải tội; giá trị nghiên cứu về lịch sử ngôn ngữ (chữ Quốc ngữ) và giá trị văn học trước hết là văn học Công giáo. Ông cũng tỏ ra đặc biệt chú ý tới loại sách được ông gọi là sách đối thoại tôn giáo, tiêu biểu như hai cuốn: Tam giáo chư vọng Hội đồng tứ giáo.

Cuộc tọa đàm do Ủy ban Giáo dân và Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức tại Huế từ ngày 20 đến 22 tháng 4/2004 lần đầu ghi nhận những tham luận của những nhà nghiên cứu chuyên môn về tôn giáo không thuộc giáo hội. Đây đều là những hội thảo đưa đến nhiều kết luận giá trị về cách tiếp cận nghiên cứu đời sống của người giáo dân thông qua nghiên cứu Hán Nôm Công giáo;

Từ sau năm 2004, nghiên cứu Hán Nôm Công giáo có thêm một số công trình được công bố trên các tạp chí, thông báo khoa học chuyên ngành. Một điểm mới mẻ là nhờ sự phát triển của Internet, việc tiếp cận các tư liệu Hán Nôm được đã dễ dàng hơn, những nghiên cứu về Hán Nôm hội thực hiện thuận lợi hơn, người đọc thể một địa điểm khác mà vẫn có thể biết được ký hiệu cũng như nội dung tóm tắt cuốn sách mình quan tâm. Chương trình số hóa sách Hán Nôm của Thư viện Quốc gia cũng là một biểu hiện của xu hướng này.

Có thể khái quát hai hướng tiếp cận phổ biến trong nghiên cứu Hán Nôm Công giáo đã và đang được thực hiện là: nghiên cứu ngữ văn và lịch sử (bao gồm lịch sử tôn giáo, lịch sử văn hóa). Việc nghiên cứu Hán Nôm Công giáo đã đạt được một số kết quả nhưng dường như những kết quả nghiên cứu đó vẫn chưa thực sự được công bố một cách rộng rãi, và hẳn nhiên giá trị của loại thư tịch đặc biệt này vẫn chưa được khai thác hết.

4.  Về giá trị của Hán Nôm Công giáo

Khi bàn về Nôm đạo, có người cho rằng loại thư tịch này hàm chứa một số giá trị nghiên cứu đối với nghiên cứu lịch sử tôn giáo nói chung, lịch sử Công giáo nói riêng, và sách giáo Hán Nôm Công giáo một vai trò quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Công giáo ở Việt Nam; Có giá trị đối với việc nghiên cứu nghi lễ cách thức thực hành nghi lễ; Có giá trị độc đáo đối với nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử, văn học21.

Đây cũng là nhận định chung của nhiều nghiên cứu khác, hay nói cách khác, thư tịch Hán Nôm Công giáo là loại hình tư liệu khá đặc biệt, có giá trị đối với những nghiên cứu về: nghi lễ Công giáo (dựa trên sách Hán Nôm hướng dẫn nghi lễ, mục vụ); nghiên cứu lối sống Công giáo (dựa nhiều vào sách hương ước, bia ký); nghiên cứu về chính trị (một ví dụ là các bản điều trần và cuộc vận động canh tân thất bại của Nguyễn Trường Tộ); nghiên cứu về ngôn ngữ (với tác phẩm chữ Nôm của G. Maiorica)…

Riêng đối với di sản Hán Nôm Công giáo hay Hán Nôm liên quan đến Công giáo lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, theo Lã Minh Hằng, tính đến năm 2012 trong số những liệu Hán Nôm Công giáo lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới có 3 tác phẩm được khai thác, xuất bản (1 văn bản chữ Hán, 2 văn bản chữ Nôm)22. Với những nghiên cứu bước đầu của mình về những thư tịch này, chúng tôi nhận thấy thể quy vào 4 nhóm giá trị chính:

-  Giá trị lịch sử: Góp phần tạo dựng lại một bức tranh tôn giáo từ quá khứ, chẳng hạn, qua tác phẩm Thuật tích việc nước Nam vãn, hay một số thư tịch viết về Đa Lộc, cũng như một số đạo dụ của triều đình đối với Công giáo, thể hiểu thêm về lịch sử Công giáo; Qua Hội đồng tứ giáo hay Thiên Chúa chân đạo dẫn giải toàn thư, thể thấy người Công giáo tại Việt Nam đã cố gắng nêu bật những điểm mạnh của Công giáo trong cuộc luận chiến được biểu hiện trên sách vở tuy vẻ ngoài êm ả nhưng quyết liệt về bản chất với các tôn giáo truyền thống...

-  Giá trị Công giáo: Chúng tôi coi giá trị Công giáo trong bài viết này gắn liền với việc giáo dục lối sống, cách thực hành tôn giáo của người Công giáo Việt Nam, đây là giá trị phổ biến và dễ nhận thấy nhất. Đa phần các thư tịch Hán Nôm Công giáo đều mang giá trị này.

-   Giá trị văn hóa (tư tưởng, nghệ thuật, ngôn ngữ, văn chương, luật tục, giáo dục, truyền thống…): Qua các di sản Hán Nôm liên quan đến Công giáo nói chung vốn khá đa dạng, có thể tìm được nhiều dấu ấn tư tưởng (cả tưởng du nhập từ Phương Tây tưởng kế thừa từ truyền thống); khiến nhà nghiên cứu có được cái nhìn về ngôn ngữ tôn giáo, cũng như ngôn ngữ của người Việt trong quá khứ, và có được cái nhìn tương đối sinh động về đời sống tôn giáo của người Công giáo Việt Nam trong quá khứ…

-  Những giá trị khác thể hiện qua những dạng văn khắc như cách thức trang trí trên văn khắc, thư tịch được khắc in, trong cách trang trí Hán Nôm trên các công trình kiến trúc…. Chúng tạo nên bức tranh sinh động về nghệ thuật Công giáo Việt Nam, trong đó có những yếu tố được du nhập, có những yếu tố được kế thừa trên tinh thần hội nhập văn hóa.

Nhìn chung, được đánh giá khá cao nhưng ràng di sản Hán Nôm của người Công giáo chỉ là một phần nhỏ bé trong kho tàng di sản Hán Nôm tương đối đồ sộ của Việt Nam. Những nhóm giá trị chung của di sản Hán Nôm Công giáo được biểu hiện những mức độ khác nhau, qua từng thư tịch cụ thể, cũng như tùy thuộc vào đối tượng tiếp cận và cách thức tiếp cận chúng.

5.  Tạm kết

Các thư tịch Hán Nôm Công giáo được hình thành từ khá sớm, gắn liền với lịch sử truyền giáo của Công giáo tại Việt Nam. Chúng khá phong phú nếu xét về loại thể và hình thức, với nội dung liên quan đến các vấn đề như: giáo dục đức tin và cách thức thực hành tôn giáo; kể lại kinh thánh hạnh tích những vị “thánh tử đạo”; kể về lịch sử Công giáo hoặc lịch sử những nhân vật Công giáo trong một thời điểm lịch sử nhất định; hoặc một thể loại của văn học.  Sự phong phú tương đối này hoàn toàn có thể cung cấp những tư liệu quý giá cho công cuộc nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, lối sống, quan điểm thần học, hay bối cảnh truyền giáo của Công giáo tại Việt Nam trong lịch sử; đồng thời có thể cung cấp cho người Công giáo và người ngoài Công giáo những sách tu đức, dạy đạo có giá trị nếu được phiên dịch và phổ biến rộng rãi.

Trong bối cảnh hiện nay, di sản di sản văn hóa là những vấn đề ngày càng được thế giới quan tâm, bởi sự sinh ra quá nhanh của những cái mới cũng nghĩa các giá trị thể cũng rất nhanh chóng bị “lỗi mốt”, và cũng bởi khả năng khai thác chúng vào những mục đích kiếm lợi. Một thứ thể trở thành di sản chỉ khi tích đủ thời gian, giá trị nhất định. Từ đó, đưa đến một hiện tượng tạm gọi là quá trình di sản hóa, tức vật giá trị hội đủ thời gian để trở thành tài sản của quá khứ, hoặc cũng thể quá trình một di sản được chính thức công nhận, giới thiệu được biết đến, đưa đến những hiệu ứng sinh lợi. Xét về khả năng sinh lợi về vật chất, ràng di sản Hán Nôm nói chung khó thể so sánh được với những di sản vật thể khác, nhưng chúng lại thứ lưu giữ ức, chuyển tải những thứ đã thuộc về quá khứ, trong đó những dấu ấn liên quan đến đạo đức, lối sống tốt đẹp. Bởi vậy, chúng là thứ có giá trị mà chúng ta thể khai thác vào nhiều mục đích, trong đó mục đích giáo dục, nghiên cứu.  khía cạnh này, Hán Nôm Công giáo thể được coi  một dạng di sản ức giá trị khai thác.

Bên cạnh đó, thể xảy ra quá trình tác động ngược, tức các liệu Hán Nôm Công giáo có thể được sử dụng để phục vụ cho các sinh hoạt trong cuộc sống đương đại nếu chúng được phiên dịch, chuyển thể phổ biến. Quá trình phiên dịch nhìn chung đã được giới Công giáo tiến hành với hàng trăm tác phẩm Hán Nôm, nhưng những bản dịch, phiên âm Quốc ngữ đó chưa thực sự phổ biến, bản thân người hiện đại cũng khó có thể hiểu hết được nhiều văn bản phiên âm chữ Nôm do sự biến đổi của tiếng Việt sau hàng trăm năm phát triển. Tuy vậy, di sản Hán Nôm Công giáo hay những thư tịch Hán Nôm liên quan đến Công giáo cũng đã sẽ có thể được sử dụng làm đề tài nghiên cứu, hoặc hoặc cung cấp cứ liệu phục vụ cho nhiều luận văn, luận án.

Trong bối cảnh hội nhập (và hòa nhập văn hóa), di sản Hán Nôm Công giáo cũng cần được nhìn nhận, và bản thân các cơ quan lưu trữ cùng giới chức Công giáo cũng cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tiếp cận, phiên dịch, nghiên cứu dạng tư liệu đặc biệt này./.


CHÚ THÍCH:

1      Dân gian thường câu “Nôm na cha mách qué”.

2      Nguyễn Hưng (2000), thảo thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam: 12.

3      Có sự khác biệt trong cách viết tên bằng tiếng Anh và tiếng Pháp của nhân vật lịch sử này.

4      Chẳng hạn như tấm bia cúng hậu Xuân Hòa hậu bi (lập ngày 2/7/1941, tại xứ đạo Xuân Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng. Xem: Nguyễn Hồng Dương, Phương Lan, “Về 3 tấm bia cúng hậu của Công giáo thành phố Hải Phòng”, Trong Kỷ yếu trao đổi khoa học: Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam do Viện Nghiên cứu Tôn giáo tổ chức ngày 25/5/2003.

5      Thông thường, Châu Âu được chia thành Đông Âu, Tây Âu, Nam Âu, Bắc Âu. Tuy nhiên, trong bài viết này chúng tôi chia Châu Âu thành hai nửa: nửa phía Đông (Đông Âu) và nửa phía Tây (Tây Âu). Các quốc gia có vai trò quan trọng trong việc truyền bá Công giáo La Mã là Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nằm ở phía Nam, và Tây nam Châu Âu được gộp vào Tây Âu.

6      Trong đó những di sản liệu bằng chữ Quốc ngữ, chữ Latinh, tiếng Pháp, Bồ Đào Nha...

7      Hoàng Xuân Việt (2007), Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc Ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội: 92 - 93.

8      Mặc dù trong những công trình nghiên cứu của mình, Đỗ Quang Hưng luôn thống kê các sách Nôm đạo gồm cả sách chữ Hán và sách chữ Nôm.

9      Linh mục Nguyễn Hưng lại có cách phân loại khác, khi chia ra 12 loại tư liệu Hán Nôm Công giáo, trong đó có cả mảng từ điển, chúng tôi chưa tán đồng cách phân loại này.

10   Trần Nghĩa, François Gros (đồng chủ biên, 1993), Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu, Tập 3: Bảng tra tên tác phẩm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 280.

11   Nguyễn Tá Nhí (2003), Tư liệu Hán Nôm về đạo Thiên Chúa, in trong Kỷ yếu trao đổi tư liệu khoa học Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam do Viện Nghiên cứu tổ chức vào tháng 5 năm 2003.

12   Minh Hằng (2013), “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại viện nghiên cứu Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học năm 2012, Nxb. Thế giới, Nội: 250 - 259.

13   Đây là lĩnh vực được Võ Long Tê quan niệm khá rộng. Nhưng với quan niệm phổ biến, văn thơ Công giáo những sáng tác văn học như truyện, kịch, thơ, vè, hoặc các khúc ngâm.

14   Những thư tịch này nằm tản mát trong nhiều chiếu chỉ, sắc lệnh của các triều đình. Trong đó, thời kỳ Minh Mệnh, Tự Đức là hai thời kỳ mà vấn đề Công giáo được chính quyền đặc biệt quan tâm vì mối đe dọa đến từ các nước thực dân Phương Tây đối với uy quyền của nhà Nguyễn đã hiển hiện. Theo quan điểm của chúng tôi, loại tư liệu này chỉ nên được gọi là tư liệu Hán Nôm liên quan đến Công giáo.

15   Trong đó, điểm cần chú ý là: sách bổn (tức bản) là sách dạy về những điều căn bản của Công giáo, ở đây thường là những giáo lý căn bản; thơ văn Công giáo Việt Nam gồm toàn bộ những sáng tác văn học, và theo Võ Long Tê, văn học Công giáo còn gồm cả những ghi chép trao đổi có tính văn học do người Công giáo tại Việt Nam thực hiện.

16   La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 3 (1998), Nxb. Giáo dục. Trong tập 3 của cuốn sách này (tr. 1321), ông viết: “Các giáo sĩ đạo Da tô sang truyền đạo tại nước ta từ đầu thế kỷ 17 đã gửi hoặc mang về Châu Âu một ít văn kiện, thư từ bằng tiếng nước ta, hoặc tự viết ra, hoặc bởi người bản quốc. Đó là nguồn duy nhất cho chúng ta biết một cách chắc chắn lối văn xuôi, cách nói chuyện của ta vào các thế kỷ 17, 18. Một ít loại tài liệu ấy còn được lưu trữ ở các thư viện Âu Châu, nhất là ở Paris và Roma. Tôi sẽ lần lượt giới thiệu một vài văn kiện ấy”.

17   Trần Văn Kiệm, người cho xuất bản cuốn Giúp đọc Nôm và Hán Việt. Cũng giống như các sách công cụ khác, cuốn sách này khá thuận lợi cho chúng ta tra cứu chữ Nôm nhờ cách sắp xếp theo trật tự.

18   Ví dụ, các công trình dịnh thuật và số hóa của nhóm học giả Nôm ở Houston, Texas như Nguyễn Huy Hùng, Nguyễn Đức Quý. Họ đã cho ấn hành các đĩa CD như: Tuồng Giu-Se Truyện Ông Thánh Y-na-xu...

19  Trong đó được biết đến nhiều luận án: The Nôm Works of Geronimo Maiorica,

S. J. (1589 - 1656) and their Christology của Brian Eugene Ostrowski, Luận án tiến sĩ tại Đại học Cornell, Hoa Kỳ, năm 2006.

20   Ví dụ, luận án tiến sĩ: Chữ Nôm và tiếng Việt thế kỷ XVII qua Thiên Chúa thánh giáo khải mông của Jeronimo Maiorica của Nguyễn Thị Tú Mai, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2012.

21   Đỗ Quang Hưng (2003), Vài ý kiến về Nôm đạo”, trong Kỷ yếu trao đổi tư liệu khoa học Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam do Viện Nghiên cứu tổ chức vào tháng 5 năm 2003.

22   Lã Minh Hằng (2013), “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”, trong Thông báo Hán Nôm học năm 2012, Nxb. Thế giới, Hà Nội : 258.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.     Việt Anh, (2014), “Tư liệu Hán Nôm Việt Nam trong Văn khố Hải ngoại (Aix- en-Provence, Pháp)”, Hán Nôm, số 2 (213): 53 - 61.

2.     Lê Đình Bảng (2003), “Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo”, Công giáo Dân tộc, số 9 (105): 49 - 53.

3.     Cao Thế Dung (2003), Việt Nam Công giáo sử tân biên (1553-2000), 3 quyển, Dân Chúa xuất bản.

4.     Nguyễn Hồng Dương (2003), Nhà thờ Công giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

5.     Nguyễn Hồng Dương (2013), Công giáo trong văn hóa Việt Nam, Tái bản lần thứ 1, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

6.     Lâm Giang (2015), Lịch sử thư tịch Việt Nam, Nxb. Khoa học hội, Nội.

7.     Hoàng Xuân Hãn (1998), La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 3, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

8.     Minh Hằng (2013), “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”, Thông báo Hán Nôm học năm 2012, Nxb. Thế giới, Nội: 250 - 259.

9.     Nguyễn Hưng (2000), Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, Tp. Hồ Chí Minh, (Tài liệu lưu hành nội bộ).

10.  Đỗ Quang Hưng (Tiểu luận nghiên cứu, 2012), Công giáo trong mắt tôi, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

11.  Nguyễn Thị Quế Hương (2012), Hương ước làng Công giáo vùng Đồng bằng Sông Hồng, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

12.  Nguyễn Thị Tú Mai (2012), Chữ Nôm và tiếng Việt thế kỷ XVII qua Thiên Chúa thánh giáo khải mông của Jeronimo Maiorica, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

13.  Mục lục thư tịch Hán Nôm tàng trữ tại Hội Thừa sai Ba Lê, Églises d’ Asie Série Histoire xuất bản năm 2004, Paris, Cộng hòa Pháp.

14.  Trần Nghĩa, François Gros (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

15.  Chương Thâu, (2003), “Một số liệu Hán Nôm về Công giáo nước ngoài”,

Nghiên cứu Tôn giáo, số 3.

16.  Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2003), Kỷ yếu trao đổi khoa học: Tư liệu Hán Nôm viết về Công giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, 25/5/2003.

17.  Hoàng Xuân Việt (2007), Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc Ngữ, Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

Nguồn: https://vjol.info.vn/index.php/rsr/article/view/38856